Bệnh vảy nến là một bệnh da viêm mãn tính và cho đến nay nguyên nhân chính xác của căn bệnh vảy nến vẫn chưa được sáng tỏ, sự rối loạn hệ miễn dịch và yếu tố di truyền được xem là đóng một vai trò quan trọng làm phát triển căn bệnh.
Bệnh vảy nến thường gặp ở những người có gen HLA-B13, B17, BW57 và CW6. Đặc biệt gen HLA-CW6 được tìm thấy ở 87% bệnh nhân vảy nến. Hệ miễn dịch vì một lý do nào đó đã bị kích hoạt một cách sai lầm, do đó đã làm tăng tốc chu kỳ tăng trưởng của tế bào da giữa các phản ứng miễn dịch khác.
Các nghiên cứu cho thấy rằng một người có phát triển bệnh vảy nến hay không tùy thuộc vào các yếu tố kích hoạt. Những yếu tố kích hoạt nguyên phát này làm khởi phát bệnh, và các yếu tố kích hoạt thứ phát làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh.
Những yếu tố làm kích hoạt căn bệnh vẩy nến và nguyên phát bao gồm:
1. Hiện tượng Koebner: là các tổn thương da ví dụ như vết cắn động vật, bỏng, sấy điện, tróc da, đông lạnh, sự cọ xát, vết thương do súng đạn, côn trùng đốt, rách da, cắt móng tay, đi giày quá chật, sự chèn ép, cạo râu, phẫu thuật ghép, đường rạch phẫu thuật, lột băng vải, mút ngón tay, tia X, bỏng nắng, xăm mình (gây chấn thương da)
2. Stress : lo lắng, trầm cảm, bệnh tâm lý, ví dụ : rối loạn stress sau chấn thương.
3. Tác động của một số loại thuốc , ví dụ
-Thuốc kháng sốt rét, ví dụ Doxycycline, chloroquine;
-Lithium: điều trị trầm cảm hay rối loạn tâm thần;
-Ức chế men chuyển : thuốc điều trị cao huyết áp;
-Thuốc kháng viêm, ví dụ ibuprofen hay indomethacin;
-Ức chế bê ta : dùng cho bệnh nhân suy tim;
-Corticosteroid: được kê toa cho nhiều bệnh khác nhau. Sự ngừng thuốc ở liều tương đối cao một cách đột ngột có thể là một yếu tố kích hoạt bệnh vảy nến.
4. Nhiễm trùng: ở một số người, thường là trẻ em và những người trẻ, một dạng vảy nến được gọi là vảy nến thể giọt hình thành sau một đợt nhiễm trùng họng do Streptococcus (lưu ý: đa số bệnh nhân bị nhiễm trùng họng do Streptococcus sẽ không xuất hiện vảy nến), nhiễm trùng hô hấp trên như là viêm hầu họng do Streptococcus hay viêm xoang. Người có hệ miễn dịch suy yếu như là bệnh nhân HIV sẽ dễ bị vảy nến hơn.
Có một số yếu tố kích hoạt thứ phát và những yếu tố này làm trầm trọng tình trạng bệnh một khi nó được kích hoạt, và sẽ tiếp tục làm cho tình trạng xấu hơn.
Những yếu tố làm kích hoạt căn bệnh vẩy nến này là :
– Uống rượu bia;
– Hút thuốc lá;
– Tiếp xúc với hoá chất, ví dụ sản phẩm tẩy rửa ở trong nhà hay trong nhà máy (có thành phần cơ bản là chlorine) thuốc diệt gián hay bọ chét, hít khói thuốc lá thụ động, những sản phẩm làm tóc như thuốc nhuộm tóc, thuốc uốn tóc, sơn,sơn mài, chất pha loãng, thuốc diệt côn trùng, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, nickel và thuốc nhuộm da…;
– Cơ thể bị mất nước;
– Táo bón hay tiêu chảy;
– Thay đổi hoặc rối loạn nội tiết tố;
– Phản ứng với thời tiết: ví dụ như trời chuyển lạnh;
– Ăn các thực phẩm bất lợi (có tính acid hay có tính lợi tiểu): cà chua, ớt, ớt chuông, trái cây chua họ cam, chanh, dâu, khóm, nước ngọt có gas, đồ ăn ngọt (sô cô la, bánh ngọt, kem, kem lạnh), tea, cà phê, thịt đỏ, phụ gia thực phẩm, các chất bảo quản.
Không phải tất cả bệnh nhân vảy nến sẽ phản ứng với tất cả những yếu tố kích hoạt nêu trên, vì vậy điều tốt nhất nên làm là ghi nhận lượng thực phẩm, nước uống … đã tiêu thụ, bạn ngủ như thế nào, bạn đã trải qua những stress nào, có tiếp xúc với hoá chất và những yếu tố môi trường khác không và đồng thời theo dõi triệu chứng của bạn, ví dụ: ngứa tăng lên, cảm giác kích thích, xuất hiện những sang thương mới, hay sang thương cũ trở nên tệ hơn …. Lưu ý rằng một số yếu tố kích hoạt ví dụ như tổn thương da có thể không thấy sự bùng phát ngay trong 10 đến 14 ngày sau khi xảy ra sự kiện kích hoạt, vì vậy nếu bạn chú ý thấy mình bị muỗi cắn hay côn trùng đốt, hãy ghi nhận ngày tháng và ghi chú bất kỳ sự bùng phát muộn nào xảy ra sau đó.
Tài liệu tham khảo
1. Višnja Milavec-Puretić et al.; Drug Induced Psoriasis; Acta Dermatovenerol Croat 2011;19(1):39-42
2. Kuchekar A.B. et al.; Psoriasis: A comprehensive review; Int. J. of Pharm. & Life Sci. (IJPLS), Vol. 2, Issue 6: June: 2011, 857-877 857
3. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh da liễu, số: 75/QĐ-BYT, 2015. 161-162.